Biên dịch: Trần Vinh Quang
Hiệu đính: Nguyễn Khởi Quân, TS. BS. Nguyễn Hữu Châu Đức
Lịch sử phát triển của vắc xin
Mặc dù tiêm chủng bệnh đậu mùa đã được thực hiện từ hơn 2000 năm trước ở Trung Quốc và Ấn Độ, một bác sĩ người Anh, Edward Jenner, thường được ghi nhận trong việc mở ra khái niệm hiện đại về tiêm chủng. Năm 1796, ông đã sử dụng thành phần từ mụn mủ đậu mùa động vật để tiêm cho bệnh nhân, giúp chống lại thành công bệnh đậu mùa trên người, nguyên nhân do một loại virus liên quan.
Đến năm 1900, đã có hai loại vắc xin virus ở người chống bệnh đậu mùa và bệnh dại, ba loại vắc xin vi khuẩn để chống lại bệnh thương hàn, bệnh tả và dịch hạch.
Một chương trình toàn cầu phát hiện và tiêm phòng bệnh trên toàn thế giới chống lại bệnh đậu mùa đã diễn ra, vào năm 1979, Hội đồng Y tế Thế giới đã chính thức tuyên bố xóa sổ bệnh đậu mùa – một kỳ tích vẫn còn được ghi nhận trong những thành tựu về sức khỏe cộng đồng lớn nhất trong lịch sử.
Câu hỏi: Bệnh đậu mùa được tuyên bố loại trừ vào năm 1979. Bạn có thể cho biết sự khác biệt giữa loại trừ và khống chế một căn bệnh? Chọn hai định nghĩa chính xác để loại bỏ và loại bỏ một căn bệnh:
A. Loại trừ đề cập đến việc xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn trên toàn thế giới đối với các trường hợp mới mắc thông qua các nỗ lực có chủ ý.
B. Loại trừ đề cập đến việc giảm đến 0 (hoặc một số lượng rất thấp) các trường hợp mới mắc trong một khu vực địa lý nào đó.
C. Khống chế đề cập đến việc giảm hoàn toàn và vĩnh viễn trên toàn thế giới đối với các trường hợp mới mắc bệnh thông qua các nỗ lực có chủ ý.
D. Khống chế đề cập đến việc giảm đến 0 (hoặc một số lượng rất thấp) các trường hợp mới mắc trong một khu vực địa lý nào đó.
Đáp án: A và D đúng.
- A. Loại trừ đề cập đến việc loại bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn các trường hợp mới mắc bệnh trên toàn thế giới thông qua các nỗ lực có chủ ý.
→ Nếu một căn bệnh đã được loại trừ, không cần phải bổ sung thêm biện pháp kiểm soát nào nữa.
- D. Khống chế đề cập đến việc giảm đến 0 (hoặc một số lượng rất thấp) các trường hợp mới mắc trong một khu vực địa lý xác định.
→ Khống chế đòi hỏi tiếp tục các biện pháp dự phòng để ngăn chặn tái truyền bệnh.
Xuyên suốt thế kỷ 20, các loại vắc xin khác giúp chống lại các bệnh nhiễm trùng thường gây tử vong như: ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt, sởi, rubella và một số bệnh truyền nhiễm khác đã được phát triển. Khi các vắc-xin này có hiệu lực, các quốc gia phát triển bắt đầu khuyến nghị tiêm vắc xin định kỳ cho trẻ. Hiện có hơn 26 bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin.
Bảng 1: Các vắc xin hiệu lực hiện nay
1800-1899 |
1900-1949 | 1950-1979 | 1980-1999 |
2000 |
1798 | 1923 | 1955 Bại liệt (IPV) |
1988 | 2000 Phế cầu (liên hợp) |
1885 | 1923 | 1962 Bại liệt (OPV) |
1986 Viêm màng não B |
2006 Virus gây u nhú ở người |
1885 | 1924 | 1963 | 1989 | |
1891
Bệnh than |
1926
Ho gà |
1967 | 1995 Varicella zoster |
|
1896 Thương hàn |
1927
Uốn ván |
1969 Viêm màng não A |
1998 | |
1897
Dịch hạch |
1935 Sốt vàng da |
1970 | 1999 Viêm màng não C (liên hợp) |
|
1943 |
1972 Haemophilus influenzae |
|||
1976 | ||||
1976 Phế cầu |
||||
1977 Viêm màng não C (polysaccharide) |
Dựa trên thành công nổi bật của chương trình bệnh đậu mùa, năm 1974, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã thiết lập Chương trình Tiêm chủng Mở rộng (TCMR). Thời kì đầu, mục tiêu TCMR của WHO là đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được bảo vệ chống lại sáu căn bệnh: lao, bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván và sởi; cho đến khi các em được một tuổi; đồng thời tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ để bảo vệ các bà mẹ và trẻ sơ sinh khỏi bệnh uốn ván.
Kể từ đó, nhiều vắc xin mới đã xuất hiện. Một số trong đó, chẳng hạn như viêm gan B, rotavirus, Haemophilus influenzae nhóm b (Hib) và vắc xin phế cầu, được WHO khuyến cáo sử dụng trên toàn cầu. Những loại khác, chẳng hạn như vắc xin sốt vàng, được khuyên dùng ở các quốc gia nơi số liệu gánh nặng bệnh tật gợi ý họ phải dùng.
Đến năm 1990, việc tiêm chủng đã bảo vệ hơn 80% trẻ em trên thế giới khỏi sáu bệnh chính và nhiều loại vắc xin mới liên tục được thêm vào các chương trình TCMR ở nhiều quốc gia.
Năm 2000, Liên minh vắc xin và tiêm chủng toàn cầu (GAVI) được thành lập để mở rộng phạm vi của TCMR, giúp các nước nghèo nhất có cơ hội tiếp cận các vắc xin mới và thêm nhiều vắc xin vào chương trình TCMR quốc gia.
Bảng 2: Tăng cường của WHO về mở rộng tiêm chủng
1974 |
1990 |
1999 |
WHO ra mắt TCMR Mục tiêu: |
|
Liên minh toàn cầu về vắc xin và tiêm chủng (GAVI) |
Tất cả trẻ (<1 tuổi) được bảo vệ chống lại sáu bệnh trẻ em (lao, bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván và sởi) | Tiêm phòng bảo vệ > 80% trẻ em trong thế giới khỏi sáu bệnh chính | Mở rộng phạm vi của TCMR
|
Vắc xin uốn ván bảo vệ phụ nữ và trẻ sơ sinh | Vắc xin mới liên tục được thêm vào chương trình TCMR ở nhiều nước
|
Giúp các nước nghèo nhất giới thiệu vắc xin mới trong các chương trình TCMR quốc gia |
Mặc dù còn khoảng 24 triệu trẻ sơ sinh trong năm đầu đời vẫn chưa được tiếp nhận đầy đủ các vắc xin trong chương trình TCMR, sự thành công của TCMR có thể được đánh giá dựa trên số liệu giảm đáng kể số ca mắc sởi và bại liệt trên toàn thế giới (xem minh họa). Hai bệnh này nằm trong số các bệnh (bao gồm cả uốn ván sơ sinh) được WHO nhắm đến để khống chế thông qua tiêm chủng.
Biểu đồ 1: Báo cáo hàng năm trên toàn cầu về tỷ lệ mắc sởi và tỷ lệ tiêm chủng trong giai đoạn 1980 – 2008
Biểu đồ 2: Các báo cáo hàng năm trên toàn cầu về bệnh bại liệt và tỷ lệ miễn dịch trong khoảng thời gian 1980 – 2010
Tài liệu tham khảo
https://vaccine-safety-training.org/history-of-vaccine-development.html